Mô đun đàn hồi là gì? Các công bố khoa học về Mô đun đàn hồi
Mô đun đàn hồi là một thành phần của hệ thống điều khiển hay máy móc, được sử dụng để giảm độ rung hoặc độ chấn động của hệ thống. Mô đun này thường bao gồm một...
Mô đun đàn hồi là một thành phần của hệ thống điều khiển hay máy móc, được sử dụng để giảm độ rung hoặc độ chấn động của hệ thống. Mô đun này thường bao gồm một số bộ phận như lò xo, bộ giảm chấn và các công cụ điều chỉnh khác để tạo ra tác động đối lực trở lại khi hệ thống rung hay chấn động. Mục đích của mô đun đàn hồi là làm giảm những sự chuyển động không mong muốn và đảm bảo rằng hệ thống vận hành ổn định và hiệu quả.
Mô đun đàn hồi thường được sử dụng để giảm độ rung hay độ chấn động trong các hệ thống hoạt động biến thiên, như các máy móc công nghiệp, máy bay, ô tô, thiết bị y tế và các ứng dụng điện tử. Độ rung hoặc độ chấn động có thể gây ra sự mất cân đối, hao mòn nhanh chóng và làm giảm độ chính xác và độ tin cậy của hệ thống.
Một mô đun đàn hồi thông thường bao gồm các thành phần sau:
1. Lò xo: Lò xo là thành phần chính để tạo ra tác động đối lực trở lại. Lò xo có khả năng co giãn và hồi phục về vị trí ban đầu khi bị kéo dài hoặc nén. Lực đàn hồi của lò xo giúp cân bằng và khôi phục hệ thống về trạng thái ban đầu sau sự chấn động.
2. Bộ giảm chấn: Bộ giảm chấn là thành phần để hấp thụ năng lượng rung. Thông qua sự biến đổi năng lượng rung thành nhiệt, bộ giảm chấn giúp làm giảm độ rung và ngăn chặn sự lan truyền của nó qua hệ thống.
3. Dây dẫn sống: Dây dẫn sống thường được sử dụng để chuyển đổi chuyển động đến mô đun đàn hồi và tạo ra độ chấn động hoặc độ rung. Dây dẫn sống có thể được điều khiển bằng cách thay đổi lực kéo, áp suất hoặc điện áp.
4. Các công cụ điều chỉnh: Mô đun đàn hồi thường đi kèm với các công cụ điều chỉnh khác nhau để tinh chỉnh hiệu suất và độ nhạy. Các công cụ này có thể bao gồm van điều chỉnh, bộ điều chỉnh lực, hoặc các thiết bị kiểm soát khác.
Mô đun đàn hồi được thiết kế để giảm thiểu sự rung và chấn động trong hệ thống, tăng cường độ ổn định và độ chính xác của nó. Việc sử dụng mô đun đàn hồi phụ thuộc vào yêu cầu cụ thể của hệ thống và mức độ rung hoặc chấn động cần được giảm thiểu.
Mô đun đàn hồi trong các hệ thống điều khiển hoặc máy móc có thể bao gồm các thành phần sau:
1. Lò xo đàn hồi: Lò xo được sử dụng để tạo ra lực hồi phục, nghĩa là lực đối lực với chuyển động ban đầu. Lò xo có khả năng lưu trữ năng lượng khi bị kéo dài hoặc nén và phục hồi vị trí ban đầu khi không còn có lực tác động lên nó. Lò xo có thể là lò xo xoắn, lò xo lục giác, lò xo khí nén hoặc các loại lò xo khác tùy thuộc vào ứng dụng cụ thể.
2. Bộ giảm chấn: Bộ giảm chấn được sử dụng để hấp thụ và làm mất đi năng lượng rung, giúp giảm độ rung và độ chấn động của hệ thống. Có nhiều loại bộ giảm chấn khác nhau như bộ giảm chấn thủy lực, bộ giảm chấn khí nén, bộ giảm chấn ma sát, hoặc bộ giảm chấn điện từ. Các bộ giảm chấn thường có các cơ chế khác nhau để chuyển đổi năng lượng rung thành nhiệt và tiêu thụ nó.
3. Thiết bị điều chỉnh: Mô đun đàn hồi cũng có thể bao gồm các thiết bị điều chỉnh để điều chỉnh hiệu suất của nó. Các thiết bị điều chỉnh này có thể là các van điều chỉnh dòng chảy, van điều khiển áp suất, van mỡ hay bất kỳ công cụ điều chỉnh nào khác tùy thuộc vào yêu cầu của hệ thống.
4. Cảm biến và bộ điều khiển: Để đáp ứng các yêu cầu điều khiển, mô đun đàn hồi có thể có cảm biến để đo mức độ rung hoặc chấn động của hệ thống và các bộ điều khiển để điều chỉnh hoạt động của mô đun. Cảm biến có thể là cảm biến gia tốc, cảm biến chuyển động hoặc bất kỳ cảm biến nào phù hợp với ứng dụng cụ thể.
Mô đun đàn hồi được thiết kế để làm giảm nhiễu rung và chấn động trong hệ thống, tăng cường độ ổn định và chính xác của nó. Sự lựa chọn và thiết kế mô đun đàn hồi phụ thuộc vào yêu cầu cụ thể của hệ thống và mức độ rung hoặc chấn động cần được giảm thiểu.
Danh sách công bố khoa học về chủ đề "mô đun đàn hồi":
Chúng tôi đã đo lường các đặc tính đàn hồi và độ bền phá vỡ nội tại của màng graphene dạng đơn lớp tự do bằng phương pháp nén nano trong kính hiển vi lực nguyên tử. Hành vi lực-chuyển vị được diễn giải theo khung phản ứng ứng suất-biến dạng đàn hồi phi tuyến và cho ra độ cứng đàn hồi bậc hai và bậc ba lần lượt là 340 newton trên mét (N m\n –1\n ) và –690 Nm\n –1\n . Độ bền phá vỡ là 42 N m\n –1\n và đại diện cho sức mạnh nội tại của một tấm không có khuyết tật. Những thông số này tương ứng với mô đun Young là\n
Kết quả phân tích của Sneddon về sự tiếp xúc đàn hồi giữa một chốt hình trụ rắn và một nửa không gian đàn hồi được sử dụng để chỉ ra rằng có một mối quan hệ đơn giản tồn tại giữa độ cứng tiếp xúc, diện tích tiếp xúc và mô đun đàn hồi mà không phụ thuộc vào hình học của chốt. Tính tổng quát của mối quan hệ này có những tác động quan trọng đối với việc đo lường các tính chất cơ học bằng các kỹ thuật ấn ngập sử dụng cảm biến tải trọng và độ sâu, cũng như trong việc đo lường những diện tích tiếp xúc nhỏ như những gì được gặp trong kính hiển vi lực nguyên tử.
Chúng tôi đã tiến hành mô phỏng phần tử hữu hạn về hiện tượng đâm xuyên hình nón đối với nhiều loại vật liệu đàn hồi-plastic khác nhau để điều tra ảnh hưởng của hiện tượng tích tụ đến độ chính xác trong việc đo độ cứng và mô đun đàn hồi bằng các kỹ thuật đâm xuyên nhận tải trọng và độ sâu. Tham số chính trong cuộc điều tra này là diện tích tiếp xúc, có thể được xác định từ các kết quả phần tử hữu hạn bằng cách áp dụng các quy trình phân tích tiêu chuẩn cho dữ liệu chuyển vị khi đâm xuyên tải trọng, như trong một thí nghiệm, hoặc trực tiếp hơn, bằng cách xem xét các hồ sơ tiếp xúc trong lưới phần tử hữu hạn. Tùy thuộc vào hành vi tích tụ của vật liệu, hai diện tích này có thể rất khác nhau. Khi hiện tượng tích tụ lớn, các diện tích suy luận từ phân tích đường cong tải trọng-chuyển vị có thể đánh giá thấp diện tích tiếp xúc thực tế lên đến 60%. Điều này dẫn đến việc ước lượng quá cao đối với độ cứng và mô đun đàn hồi. Các điều kiện mà dưới đó các sai số có ý nghĩa được xác định, và chúng tôi chỉ ra cách mà các tham số đo được từ dữ liệu tải trọng-chuyển vị có thể được sử dụng để xác định khi hiện tượng tích tụ là một yếu tố quan trọng.
Một mô hình lõi-vỏ mới của thanh composit hybrid đã được phát triển, trong đó sợi thép và sợi thủy tinh được phân tán ngẫu nhiên trong mặt cắt ngang của lõi, và sợi Twaron (Teijin Twaron, Hà Lan) cùng với sợi carbon được đặt trong lớp vỏ. So với các thanh gia cố composit thủy tinh, các thanh composit hybrid mới có đặc điểm kháng ăn mòn, độ dẻo dai, và mô đun đàn hồi kéo cao cũng như sức mạnh cao, và có tiềm năng để ứng dụng trong các kết cấu bê tông.
Các tính toán từ nguyên lý đầu tiên về các hằng số mạng, mô đun khối, đạo hàm áp suất của mô đun khối và các hằng số đàn hồi của các hợp chất AlN và TiN trong cấu trúc muối đá (B1) và wurtzite (B4) được trình bày. Chúng tôi đã sử dụng phương pháp sóng phẳng đã gia tăng tuyến tính với tiềm năng đầy đủ (FP-LAPW) trong lý thuyết hàm mật độ (DFT) theo xấp xỉ gradient tổng quát (GGA) cho hàm trao đổi - tương quan. Hơn nữa, các thuộc tính đàn hồi của TiN lập phương và AlN lục giác, bao gồm các hằng số đàn hồi, mô đun khối và mô đun cắt được xác định và so sánh với dữ liệu thực nghiệm và lý thuyết trước đó. Kết quả của chúng tôi cho thấy rằng sự chuyển tiếp cấu trúc ở 0 K từ pha wurtzite sang pha muối đá xảy ra ở 10 GPa và -26 GPa cho AlN và TiN, tương ứng. Những kết quả này nhất quán với các nghiên cứu khác được tìm thấy trong tài liệu.
- 1
- 2
- 3
- 4
- 5
- 6
- 10